Thực đơn
Penang Nhân khẩuPenang là bang có mật độ dân số cao nhất tại Malaysia với 1.450,5 người/km²[1]. Dân số Penang là 1.520.143 vào năm 2010.[35]
Điều tra | Dân số | |
---|---|---|
1786[36] | dưới 100 | |
1812[37] | 26.107 | 26107 |
1820[37] | 35.035 | 35035 |
1842[37] | 40.499 | 40499 |
1860[37] | 124.772 | 124772 |
1871[37] | 133.230 | 133230 |
1881[37] | 188.245 | 188245 |
1891[37] | 232.003 | 232003 |
1901[38] | 248.207 | 248207 |
1911[39] | 278.000 | 278000 |
1921[40] | 292.484 | 292484 |
1931[41] | 340.259 | 340259 |
1941[42] | 419.047 | 419047 |
1947[42] | 446.321 | 446321 |
1957[41] | 572.100 | 572100 |
1970[43] | 776.124 | 776124 |
1980[43] | 900.772 | 900772 |
1991[43] | 1.064.166 | 1064166 |
2000[43] | 1.313.449 | 1313449 |
2010[43] | 1.520.143 | 1520143 |
Thành phần dân tộc ở bang Penang (2018)[44] | ||||
---|---|---|---|---|
Tên dân tộc | Tỷ lệ | |||
Bumiputera | 42.25% | |||
Người Hoa | 39.42% | |||
Người Ấn | 9.43% | |||
Khác | 0.28% | |||
Người nước ngoài | 8.62% |
Tôn giáo tại Penang – Điều tra 2010[45] | ||||
---|---|---|---|---|
tôn giáo | tỷ lệ | |||
Hồi giáo | 44.6% | |||
Phật giáo | 35.6% | |||
Ấn Độ giáo | 8.7% | |||
Ki-tô giáo | 5.1% | |||
Tôn giáo dân gian Trung Hoa | 4.6% | |||
Khác | 1.0% | |||
Không tôn giáo | 0.4% |
Thành phần dân tộc năm 2010[46] là:
Penang có khoảng 70.000 đến 80.000 công nhân nhập cư, đặc biệt là từ Indonesia, Myanmar, Việt Nam, Thái Lan, và các quốc gia Nam Á, hầu hết họ làm việc giúp việc gia đình, dịch vụ, chế tạo, xây dựng, đồn điền, và nông nghiệp.[47]
Penang thời thực dân là một nơi toàn cầu chủ nghĩa, ngoài những người Âu và các cư dân đa sắc tộc tại địa phương, nơi này còn có các cộng đồng người Xiêm, người Miến, người Philippines, người Ceylon người Âu-Á, người Nhật, người Sumatra, người Ả Rập, người Armenia, người Bái Hỏa giáo.[48][49][50] Một cộng đồng người Đức cũng tồn tại ở Penang, có quy mô nhỏ song quan trọng về thương mại.[51] Mặc dù hiện nay hầu hết các cộng đồng này không còn tồn tại, song di sản của họ vẫn còn thông qua tên các đường phố và địa điểm.Có một khu Do Thái tại Penang trước Chiến tranh thế giới thứ hai.[52][53] Penang hiện có một lượng khá lớn cư dân tha hương, đặc biệt là từ Nhật Bản, các quốc gia châu Á khác và Anh Quốc, nhiều người trong số họ định cư tại Penang sau khi nghỉ hưu theo Chương trình "Malaysia Quê hương thứ hai của tôi".[54]
Peranakan, cũng được gọi là người Hoa Eo biển hay Baba-Nyonya, là hậu duệ của những người Hoa nhập cư sớm đến Penang, Malacca và Singapore.[55] Họ tiếp nhận một phần phong tục Mã Lai và nói một ngôn ngữ bồi Hoa-Mã Lai, nhiều từ trong đó đóng góp vào từ vựng của tiếng Phúc Kiến Penang. Cộng đồng Peranakan có bản sắc riêng biệt về thực phẩm, y phục, nghi lễ, thủ công nghiệp và văn hóa. Hầu hết người Peranakan thực hành một dạng chiến trung của thờ cúng tổ tiên và tôn giáo Trung Hoa, và một số là tín hữu Ki-tô giáo.[56] Họ kiêu hãnh rằng bản thân biết nói tiếng Anh và phân biệt mình với những người Hoa mới đến. Người Peranakan có một văn hóa sinh hoạt, song hiện gần như đã mai một do họ bị tái hấp thu và cộng đồng người Hoa chủ đạo, hoặc bị Tây hóa. Tuy nhiên, di sản của họ vẫn tồn tại trong kiến trúc, ẩm thực, y phục nyonya kebaya tỉ mỉ và thủ công nghiệp tinh tế.[57][58]
Các ngôn ngữ chung tại Penang, tùy thuộc theo tầng lớp xã hội, phạm vi xã hội, bối cảnh dân tộc là tiếng Mã Lai, Quan thoại, tiếng Anh, tiếng Phúc Kiến Penang, và tiếng Tamil. Quan thoại được giảng dạy tại các trường tiếng Hoa, và ngày càng có nhiều người nói.[59]
Tiếng Phúc Kiến Penang là một biến thể của tiếng Mân Nam và được nói rộng rãi bởi một tỷ lệ đáng kể dân cư Penang. Nhiều sĩ quan cảnh sát cũng tham gia một khóa học tiếng Phúc Kiến.[60] Nó có sự tương đồng cao với ngôn ngữ của những người Hoa sống tại thành phố Medan của Indonesia và dựa trên phương ngữ Mân Nam tại Chương Châu, Phúc Kiến. Hầu hết người nói tiếng Phúc Kiến Penang không biết viết tiếng Phúc Kiến mà chỉ biết đọc và viết Quan thoại, tiếng Anh và/hoặc tiếng Mã Lai.[61] Các phương ngữ tiếng Hoa khác, gồm có tiếng Khách Gia, tiếng Quảng Đông, và tiếng Triều Châu.
Tiếng Mã Lai là ngôn ngữ của dân cư bản địa, cũng là ngôn ngữ chính thức của bang, là phương tiện giảng dạy trong các trường học quốc gia. Tiếng Mã Lai tại Penang thuộc phương ngữ miền bắc, có những từ đặc trưng như "hang", "depa", và "kupang". Âm tiết kết thúc bằng "a" được nhấn mạnh.
Tiếng Anh là một di sản từ thời thực dân, là một ngôn ngữ làm việc được sử dụng rộng rãi trong thương mại, giáo dục, và nghệ thuật. Tiếng Anh được sử dụng trong bối cảnh chính thức chủ yếu là tiếng Anh-Anh. Tiếng Anh khẩu ngữ thường là một dạng tiếng bồi gọi là Manglish.
Thực đơn
Penang Nhân khẩuLiên quan
Penang Penangodyna tibialis Penango Pennagaram Pinanga Penagos Pendang Pinanga dicksonii Pinanga adangensis Pen Argyl, PennsylvaniaTài liệu tham khảo
WikiPedia: Penang ftp://ftp.atdd.noaa.gov/pub/GCOS/WMO-Normals/TABLE... http://www.asiaexplorers.com/malaysia/francislight... http://teochiewkia2010.blogspot.com/2010/03/penang... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/328997/S... http://www.geoscience-environment.com/tsunami/tsun... http://www.globalservicesmedia.com/Destinations/As... http://books.google.com/?id=BjBQvlPm_I0C&pg=PA154&... http://books.google.com/?id=PaUNAAAAQAAJ&pg=PA404&... http://books.google.com/?id=hS0_GehsGPwC&pg=PA187&... http://books.google.com/?id=wXawDquOlowC&pg=PA895&...